Một số nội dung phục vụ Sinh hoạt chi bộ tháng 10/2021
Ban Tuyên giáo tỉnh ủy triển khai Một số nội dung phục vụ Sinh hoạt chi bộ tháng 10/2021
I. CÁC VĂN BẢN MỚI BAN HÀNH VÀ CHÍNH SÁCH CÓ HIỆU THỤC TỪ THÁNG 10/2021
Chuẩn bị tốt nội dung cho đại hội đoàn các cấp
Ngày 20/8/2021, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 08-CT/TW về lãnh đạo đại hội đoàn các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh lần thứ XII, nhiệm kỳ 2022 - 2027.
Chỉ thị nêu rõ, 5 năm qua, các cấp uỷ, tổ chức đảng đã lãnh đạo hệ thống chính trị, toàn xã hội thực hiện tốt công tác thanh niên và chăm lo xây dựng Đoàn; quan tâm, tạo điều kiện, cơ hội cho thanh niên rèn luyện, cống hiến, phát triển toàn diện và trưởng thành. Tuổi trẻ Việt Nam luôn phát huy tinh thần tiên phong, xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh luôn kiên định bản lĩnh chính trị, trung thành và kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, "trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên", thực hiện tốt chức năng đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thanh thiếu nhi.
Tuy nhiên, vai trò tổ chức đoàn ở một số nơi, nhất là trên địa bàn dân cư còn chưa rõ nét. Công tác tập hợp, đoàn kết thanh niên khu vực kinh tế ngoài nhà nước, trong các khu công nghiệp, người Việt Nam ở nước ngoài chưa đạt yêu cầu. Công tác phát triển đảng trong thanh niên có mặt còn hạn chế. Một bộ phận thanh niên có biểu hiện sa sút về lý tưởng, đạo đức, lối sống, mắc tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật… Một số cấp uỷ đảng, chính quyền, địa phương, đơn vị chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm của Đảng về công tác thanh thiếu nhi, chưa làm tốt trách nhiệm chăm lo, bồi dưỡng, phát huy thế mạnh của thanh niên; chưa chú trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ trẻ.
Để lãnh đạo đại hội đoàn các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh lần thứ XII, nhiệm kỳ 2022 - 2027 đạt kết quả tốt, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thanh niên. Chỉ đạo ban chấp hành đoàn các cấp chuẩn bị tốt nội dung đại hội.
Lãnh đạo chuẩn bị tốt công tác nhân sự cơ quan lãnh đạo các cấp của Đoàn; tập trung chỉ đạo tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bố trí, điều động cán bộ để chuẩn bị một bước cho nhân sự đại hội đoàn các cấp; rà soát, quan tâm bố trí công tác cán bộ đoàn chuyên trách đến tuổi trưởng thành.
Chỉ đạo công tác tuyên truyền trước, trong và sau đại hội, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền và toàn xã hội trong việc chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ, phát huy vai trò của thanh niên. Chỉ đạo đoàn các cấp phát động các phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp, thiết thực chào mừng đại hội; đa dạng hoá hình thức, đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội; tăng cường biểu dương, tôn vinh, nhân rộng điển hình tiên tiến.
Ban Chấp hành Trung ương Đoàn phối hợp với Ban thường vụ các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương chỉ đạo ban chấp hành đoàn các cấp xây dựng kế hoạch tổ chức đại hội, nội dung văn kiện, công tác nhân sự và các công tác bảo đảm khác. Thời gian tiến hành đại hội cấp cơ sở, cấp huyện, cấp tỉnh từ đầu quý I/2022 đến đầu quý IV/2022; Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh lần thứ XII tổ chức vào tháng 12/2022./.
Bộ Chính trị: Khuyến khích và bảo vệ cán bộ
năng động, sáng tạo
Ngày 22/9, thay mặt Bộ Chính trị, đồng chí Võ Văn Thưởng, Thường trực Ban Bí thư đã ký ban hành Kết luận số 14 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.
Theo đó, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số chủ trương sau:
Nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng và đồng thuận trong xã hội về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung; khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng, hết sức vì nhân dân phục vụ của đội ngũ cán bộ.
Trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn, khuyến khích cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách, tập trung vào những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung.
Đề xuất đổi mới, sáng tạo của cán bộ phải báo cáo với người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị nơi công tác; được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực hiện thí điểm, bảo đảm không trái với Hiến pháp và Điều lệ Đảng. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị quan tâm hỗ trợ nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ triển khai thực hiện.
Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện thí điểm các đề xuất đổi mới, sáng tạo. Chủ động phát hiện những vấn đề nảy sinh, kịp thời động viên, hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hoặc xem xét, điều chỉnh, có quyết định phù hợp với tình hình thực tế. Phát hiện sớm và kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh sai sót, vi phạm.
Khi cán bộ thực hiện thí điểm mà kết quả không đạt hoặc chỉ đạt được một phần mục tiêu đề ra hoặc gặp rủi ro, xảy ra thiệt hại thì cấp có thẩm quyền phải kịp thời xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, đánh giá công tâm để xem xét, xử lý phù hợp, nếu thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì được xem xét miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm.
Xử lý nghiêm việc lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Định kỳ sơ kết, tổng kết, đẩy mạnh tuyên truyền, nhân rộng những mô hình, giải pháp thí điểm, đổi mới, sáng tạo có hiệu quả; kịp thời xem xét, nghiên cứu để thể chế hoá thành quy định pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để nhân rộng các mô hình, giải pháp đó. Đồng thời biểu dương, khen thưởng xứng đáng; ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo, hiệu quả cao./.
19 đối tượng được miễn học phí
theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP của Chính phủ
Ngày 27/8/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 81/2021/NĐ-CP quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
Nghị định quy định 2 đối tượng không phải đóng học phí gồm: Học sinh tiểu học trường công lập; Người theo học các ngành chuyên môn đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Giáo dục đại học, các ngành chuyên môn đặc thù do Thủ tướng Chính phủ quy định.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định 19 đối tượng được miễn học phí gồm:
1. Các đối tượng theo quy định tại Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng nếu đang theo học tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
2. Trẻ em học mẫu giáo và học sinh, sinh viên khuyết tật.
3. Trẻ em học mẫu giáo và học sinh dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng và người từ 16 tuổi đến 22 tuổi đang học phổ thông, giáo dục đại học văn bằng thứ nhất thuộc đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 5 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, ngày 15/3/2021 của Chính phủ về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội. Người học các trình độ trung cấp, cao đẳng mồ côi cả cha lẫn mẹ, không nơi nương tựa theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp.
4. Trẻ em học mẫu giáo và học sinh phổ thông, học viên học tại cơ sở giáo dục thường xuyên theo chương trình giáo dục phổ thông có cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ hoặc ông bà (trong trường hợp ở với ông bà) thuộc diện hộ nghèo theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
5. Trẻ em mầm non 5 tuổi ở thôn/bản đặc biệt khó khăn, xã khu vực III vùng dân tộc và miền núi, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
6. Trẻ em mầm non 5 tuổi không thuộc đối tượng quy định tại khoản 5 Điều này được miễn học phí từ năm học 2024 - 2025 (được hưởng từ ngày 01/9/2024).
7. Trẻ em mầm non và học sinh phổ thông, học viên học tại cơ sở giáo dục thường xuyên theo chương trình giáo dục phổ thông là con đẻ, con nuôi hợp pháp của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 27/2016/NĐ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chính phủ quy định một số chế độ, chính sách đối với hạ sỹ quan, binh sĩ phục vụ tại ngũ, xuất ngũ và thân nhân của hạ sỹ quan, binh sĩ tại ngũ.
8. Học sinh trung học cơ sở ở thôn/bản đặc biệt khó khăn, xã khu vực III vùng dân tộc và miền núi, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo theo quy định của cơ quan có thẩm quyền được miễn học phí từ năm học 2022 - 2023 (được hưởng từ ngày 01/9/2022).
9. Học sinh trung học cơ sở không thuộc đối tượng quy định tại khoản 8 Điều này được miễn học phí từ năm học 2025 - 2026 (được hưởng từ ngày 01/9/2025).
10. Học sinh, sinh viên hệ cử tuyển (kể cả học sinh cử tuyển học nghề nội trú với thời gian đào tạo từ 3 tháng trở lên) theo quy định của Chính phủ về chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
11. Học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dự bị đại học, khoa dự bị đại học.
12. Học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học người dân tộc thiểu số có cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ hoặc ông bà (trong trường hợp ở với ông bà) thuộc hộ nghèo và hộ cận nghèo theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
13. Sinh viên học chuyên ngành Mác-Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
14. Học sinh, sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh học một trong các chuyên ngành Lao, Phong, Tâm thần, Giám định pháp Y, Pháp y tâm thần và Giải phẫu bệnh tại các cơ sở đào tạo nhân lực y tế công lập theo chỉ tiêu đặt hàng của Nhà nước.
15. Học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số rất ít người quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 57/2017/NĐ-CP, ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn theo quy định hiện hành của cơ quan có thẩm quyền.
16. Người học thuộc các đối tượng của các chương trình, đề án được miễn học phí theo quy định của Chính phủ.
17. Người tốt nghiệp trung học cơ sở học tiếp lên trình độ trung cấp.
18. Người học các trình độ trung cấp, cao đẳng, đối với các ngành, nghề khó tuyển sinh nhưng xã hội có nhu cầu theo danh mục do Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội quy định.
19. Người học các ngành, nghề chuyên môn đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp. Các ngành, nghề chuyên môn đặc thù do Thủ tướng Chính phủ quy định.
Nghị định của Chính phủ cũng quy định các nhóm đối tượng được giảm học phí và hỗ trợ tiền đóng học phí.
Cụ thể, các đối tượng được giảm 70% học phí gồm: Học sinh, sinh viên học các ngành nghệ thuật truyền thống và đặc thù trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học công lập, tư thục có đào tạo về văn hóa - nghệ thuật bao gồm: Nhạc công kịch hát dân tộc, nhạc công truyền thống Huế, đờn ca tài tử Nam Bộ, diễn viên sân khấu kịch hát, nghệ thuật biểu diễn dân ca, nghệ thuật ca trù, nghệ thuật bài chòi, biểu diễn nhạc cụ truyền thống; Học sinh, sinh viên học các chuyên ngành nhã nhạc cung đình, chèo, tuồng, cải lương, múa, xiếc; một số nghề học nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đối với giáo dục nghề nghiệp theo danh mục các nghề học nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định; Trẻ em học mẫu giáo và học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số (ngoài đối tượng dân tộc thiểu số rất ít người) ở thôn/bản đặc biệt khó khăn, xã khu vực III vùng dân tộc và miền núi, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển hải đảo theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
Các đối tượng được giảm 50% học phí gồm: Trẻ em học mẫu giáo và học sinh, sinh viên là con cán bộ, công chức, viên chức, công nhân mà cha hoặc mẹ bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp được hưởng trợ cấp thường xuyên; Trẻ em học mẫu giáo và học sinh phổ thông, học viên học tại cơ sở giáo dục thường xuyên theo chương trình giáo dục phổ thông có cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ hoặc ông bà (trong trường hợp ở với ông bà) thuộc diện hộ cận nghèo theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Đối tượng được hỗ trợ tiền đóng học phí: Học sinh tiểu học trong cơ sở giáo dục tư thục ở địa bàn không đủ trường công lập được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng học phí./.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ
Ngày 06/9/2021, thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Thanh Hải, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh đã ký ban hành Chỉ thị số 06-CT/TU về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Theo đó, thời gian qua, cấp ủy các cấp trên địa bàn tỉnh đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và đạt được kết quả quan trọng. Tuy nhiên, chất lượng sinh hoạt chi bộ vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng quán triệt, thực hiện tốt một số nội dung sau:
1. Các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết, quy định, hướng dẫn, kết luận của Trung ương, của tỉnh về vai trò của chi bộ và việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cấp ủy, đảng viên về vị trí, vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc duy trì, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ đối với nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
2. Tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy viên, bí thư chi bộ; thường xuyên củng cố, kiện toàn đội ngũ cấp uỷ viên bảo đảm đủ số lượng, có năng lực, trình độ, uy tín, tâm huyết, có phẩm chất đạo đức và kinh nghiệm về công tác đảng; tiếp tục đổi mới nội dung và hình thức tập huấn nghiệp vụ cho bí thư, phó bí thư, cấp ủy viên chi bộ, chú trọng bồi dưỡng đội ngũ chi uỷ viên, bí thư chi bộ những kiến thức, kỹ năng sinh hoạt chi bộ, năng lực cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp ủy cấp trên. Thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị (đối với chi bộ trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, lực lượng vũ trang); là chủ tịch hội đồng quản trị hoặc tổng giám đốc, giám đốc (đối với chi bộ trong các doanh nghiệp có vốn nhà nước); là trưởng thôn, xóm, bản, tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận (đối với chi bộ thôn, xóm, bản, tổ dân phố).
3. Cấp ủy, bí thư chi bộ tổ chức thực hiện tốt Hướng dẫn số 12-HD/BTCTW, ngày 06/7/2018 của Ban Tổ chức Trung ương về một số vấn đề về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Chủ động chuẩn bị thật tốt nội dung trên cơ sở bám sát chức năng, nhiệm vụ để tổ chức sinh hoạt cho phù hợp với đặc điểm, tình hình của chi bộ. Việc tổ chức sinh hoạt chi bộ phải bảo đảm nghiêm túc, nội dung và thời gian theo quy định; đưa nội dung thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào sinh hoạt định kỳ của chi bộ.
4. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy dân chủ, tạo không khí cởi mở, đầm ấm, gần gũi, xây dựng trong sinh hoạt chi bộ nhằm khơi dậy nhiệt huyết, trí tuệ, sáng kiến, sáng tạo, trách nhiệm của mỗi đảng viên, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu trong sinh hoạt chi bộ.
5. Tăng cường công tác phối hợp giữa cấp ủy với chính quyền, chuyên môn trong bố trí, tạo điều kiện tổ chức sinh hoạt chi bộ bảo đảm thời gian, yêu cầu và chất lượng; đối với cấp ủy cơ sở cần tổ chức sinh hoạt mẫu theo từng loại hình chi bộ nhằm phát huy tính sáng tạo, cách làm hay trong sinh hoạt chi bộ. Thời điểm tổ chức sinh hoạt chi bộ định kỳ hằng tháng phải bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của chi bộ được đồng bộ, thống nhất với nhiệm vụ của cấp ủy cấp trên và của cơ quan, đơn vị. Định hướng cụ thể nội dung sinh hoạt chuyên đề theo quý cho từng loại hình chi bộ.
6. Thực hiện nghiêm việc đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ theo khung tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ tại Quy định số 02-QĐi/TU, ngày 23/10/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy bảo đảm khách quan, đúng thực chất. Cấp ủy cấp huyện theo dõi, đôn đốc các chi bộ chấp hành nghiêm việc tự chấm điểm chất lượng sinh hoạt chi bộ hằng tháng; hằng năm đánh giá kết quả công tác sinh hoạt chi bộ, xác định rõ ưu, khuyết điểm và nguyên nhân, đề ra giải pháp khắc phục để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; kịp thời biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân làm tốt và xử lý nghiêm những chi bộ, đảng viên vi phạm chế độ sinh hoạt đảng.
7. Thực hiện tốt công tác đảng viên, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý đảng viên và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Thống nhất triển khai sử dụng phần mềm Sổ tay đảng viên điện tử để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, triển khai kịp thời các chỉ thị, nghị quyết, quy định, hướng dẫn... của Đảng và cấp ủy cấp trên; cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu phục vụ nội dung sinh hoạt chi bộ; nâng cao chất lượng kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên, chất lượng sinh hoạt chi bộ.
8. Các huyện, thành, thị ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy phân công cấp ủy viên, cán bộ các ban của cấp ủy dự sinh hoạt thường xuyên với cấp ủy, chi bộ; tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc chấp hành chế độ sinh hoạt chi bộ và thực hiện nhiệm vụ của cấp ủy viên, cán bộ được phân công theo dõi, dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở; tiếp tục tổ chức thi “Bí thư chi bộ giỏi” ở cấp huyện để lựa chọn, biểu dương những đồng chí bí thư chi bộ có năng lực, tâm huyết với công việc; tổng kết và nhân rộng mô hình mới, cách làm hay, hiệu quả trong sinh hoạt chi bộ.
9. Giao Ban Tổ chức Tỉnh ủy chủ trì, phối hợp với các ban xây dựng Đảng của Tỉnh ủy, Văn phòng Tỉnh ủy hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Chỉ thị; định kỳ báo cáo, tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy sơ kết, tổng kết Chỉ thị; xây dựng quy định cấp ủy viên dự sinh hoạt với chi bộ khu dân cư; tham mưu phân công các đồng chí ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trực tiếp dự sinh hoạt chi bộ tại các khu dân cư ít nhất mỗi quý một lần; mẫu hóa hệ thống văn bản sổ ghi chép của chi bộ, sổ sinh hoạt đảng của đảng viên; biên bản sinh hoạt chi bộ để thực hiện thống nhất trong toàn Đảng bộ tỉnh.
Chỉ thị này được phổ biến đến chi bộ để thực hiện./.
Tăng cường công tác quản lý đảng viên
và nâng cao chất lượng phát triển đảng viên, giai đoạn 2021 - 2025
Ngày 06/9/2021, thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Thanh Hải, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh đã ký ban hành Chỉ thị số 07-CT/TU về tăng cường công tác quản lý đảng viên và nâng cao chất lượng phát triển đảng viên, giai đoạn 2021 - 2025.
Theo đó, những năm qua, công tác quản lý đảng viên và nâng cao chất lượng phát triển đảng viên trên địa bàn tỉnh đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác quản lý, phát triển đảng viên trên địa bàn tỉnh vẫn còn những khó khăn, hạn chế. Để tăng cường công tác quản lý đảng viên và nâng cao chất lượng phát triển đảng viên trong tình hình mới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy, tổ chức Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc, nghiêm túc những quy định, hướng dẫn về công tác đảng viên. Thực hiện chặt chẽ, đồng bộ các quy định, nhiệm vụ về công tác quản lý đảng viên; tăng cường quản lý đảng viên về lập trường tư tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức, đặc biệt về lối sống và mối quan hệ tại nơi công tác và nơi cư trú; thực hiện nhiệm vụ của đảng viên về chế độ sinh hoạt đảng, đóng đảng phí, chuyển sinh hoạt đảng, miễn công tác và sinh hoạt đảng; tăng cường tính kỷ luật, phê bình và tự phê bình trong sinh hoạt đảng. Các cấp ủy cơ sở, nhất là ở chi bộ phải nắm rõ lịch sử chính trị, trình độ, năng lực, sở trường công tác của từng đảng viên gắn với phân công nhiệm vụ phù hợp; thực hiện nghiêm công tác quản lý đảng viên ra nước ngoài, đi làm ăn xa bảo đảm trình tự, thủ tục theo quy định.
2. Các cấp ủy, tổ chức đảng quản lý tốt việc chấp hành chế độ sinh hoạt đảng, việc thực hiện tự phê bình và phê bình, ý thức trách nhiệm khi tham gia sinh hoạt của đảng viên ở nơi công tác và nơi cư trú, kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm chế độ sinh hoạt đảng; thực hiện nghiêm túc việc giới thiệu đảng viên giữ mối liên hệ với cấp ủy, tổ chức đảng nơi cư trú theo Quy định số 213-QĐ/TW, ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị, Hướng dẫn số 33-HD/BTCTW ngày 30/10/2020 của Ban Tổ chức Trung ương về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và Nhân dân nơi cư trú; các quy định về trách nhiệm nêu gương, nhất là về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, giữ gìn đoàn kết trong Đảng và trong Nhân dân, gương mẫu đi đầu trong công việc để thu hút, tập hợp Nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
3. Nêu cao nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu và cấp ủy các cấp về công tác xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh; thực hiện chặt chẽ, đúng quy định về nghiệp vụ công tác quản lý đảng viên, nhất là trong công tác chuyển và tiếp nhận đảng viên sinh hoạt đảng về nơi cư trú và khi thay đổi nơi công tác; thường xuyên theo dõi, kịp thời nhắc nhở đảng viên thực hiện đúng quy định việc chuyển và tham gia sinh hoạt đảng; chỉ đạo cấp ủy cơ sở định kỳ (03 tháng, 06 tháng, 01 năm) đối khớp danh sách đảng viên với các chi bộ trực thuộc và với ban tổ chức cấp ủy cấp trên cơ sở; thực hiện nghiêm túc, thống nhất quy trình, thủ tục chuyển sinh hoạt đảng chính thức trong các đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy theo quy định, hướng dẫn của Trung ương.
4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và phát huy vai trò nêu gương của đảng viên; trong đó, chú trọng kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ được giao, đánh giá, xếp loại, biểu dương, khen thưởng đảng viên đúng thực chất. Thực hiện nghiêm quy định về giảm, miễn sinh hoạt đảng tại chi bộ; việc rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không bảo đảm tiêu chuẩn, không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng theo tinh thần Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 21/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Hướng dẫn số 02-HD/BTCTW, ngày 12/4/2021 của Ban Tổ chức Trung ương và hướng dẫn của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; đồng thời, xử lý các trường hợp vi phạm bảo đảm tính nghiêm minh, tính giáo dục của Đảng. Chú trọng công tác quản lý, theo dõi, nắm bắt tư tưởng các trường hợp đã ra khỏi Đảng, không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, lôi kéo.
5. Căn cứ nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, các cấp ủy trực thuộc Tỉnh ủy xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên giai đoạn 2021 - 2025 phù hợp với tình hình của đảng bộ. Chú trọng công tác tạo nguồn phát triển Đảng, phấn đấu số lượng đảng viên mới kết nạp tăng thêm 2,5% so với tổng số đảng viên đầu nhiệm kỳ trong toàn Đảng bộ tỉnh nhưng không chạy theo số lượng và phải bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng đảng viên; kết hợp chặt chẽ giữa công tác phát triển đảng viên với công tác sàng lọc đảng viên, kiên quyết đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng. Thường xuyên kiểm tra, theo dõi, hướng dẫn, làm tốt công tác phát hiện, giúp đỡ, bồi dưỡng, tạo nguồn kết nạp đảng viên. Chỉ đạo Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện nghiên cứu, mở các lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng theo hướng linh hoạt hơn về địa điểm, thời gian để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhiều đối tượng quần chúng được tham gia học tập, nhất là quần chúng đang làm việc trong các doanh nghiệp. Thực hiện nghiêm việc đảng viên được phân công theo dõi, giúp đỡ quần chúng ưu tú, đảng viên dự bị; phải xây dựng kế hoạch, theo dõi, giúp đỡ cụ thể và được chi bộ phê duyệt, định kỳ hằng quý báo cáo chi bộ về kết quả theo dõi, giúp đỡ của mình. Hằng năm, tổ chức sơ kết, đánh giá, rút kinh nghiệm công tác quản lý và phát triển đảng viên ở cấp mình; kịp thời biểu dương, khen thưởng các tổ chức đảng, đảng viên làm tốt; đồng thời, chấn chỉnh, uốn nắn những tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu các chi bộ chưa quan tâm thực hiện tốt công tác quản lý và phát triển đảng viên.
6. Các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục chỉ đạo việc tăng cường mối quan hệ công tác giữa các địa phương với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước trong công tác phát triển đảng viên; tăng cường phát triển đảng viên trong các đơn vị kinh tế tư nhân, kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng; thực hiện các giải pháp linh hoạt tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đảng viên làm việc trong doanh nghiệp, làm ăn xa được sinh hoạt đảng đầy đủ và quần chúng là công nhân, người lao động trong doanh nghiệp được theo dõi, giúp đỡ, bồi dưỡng phát triển Đảng.
7. Quan tâm theo dõi, giúp đỡ, bồi dưỡng quần chúng là trưởng thôn, xóm, bản, tổ dân phố, trưởng ban công tác mặt trận; trưởng, phó, ủy viên các chi đoàn, chi hội, đoàn viên, hội viên các tổ chức trong hệ thống chính trị, bộ đội xuất ngũ, y tế, giáo viên, học sinh, sinh viên vào Đảng. Chú trọng lựa chọn, giới thiệu đảng viên có phẩm chất, năng lực, uy tín để Nhân dân bầu làm trưởng thôn, xóm, bản, tổ trưởng tổ dân phố, sau đó chi bộ bầu làm bí thư, phó bí thư cấp ủy, góp phần nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở địa bàn dân cư.
8. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội nhất là Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, tổ chức công đoàn, các cơ quan báo, đài của tỉnh tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đoàn viên, hội viên và Nhân dân nhận thức sâu sắc về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới, kết quả công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị; tổ chức các hoạt động, phong trào thi đua yêu nước, đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt thiết thực nhằm tạo diễn đàn cho đoàn viên, hội viên tham gia, qua đó phát hiện, giúp đỡ, bồi dưỡng, giáo dục, tạo nguồn kết nạp quần chúng ưu tú vào Đảng. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nêu gương người tốt, việc tốt, đảng viên gương mẫu có uy tín trong học tập, lao động, sản xuất, chiến đấu, nhằm tạo sức lan tỏa cho quần chúng học tập, noi theo và mong muốn phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng.
9. Ban Tổ chức Tỉnh ủy chủ trì, phối hợp với các cơ quan tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn các cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện tốt Chỉ thị này; định kỳ hằng năm báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đồng thời chủ động tham mưu sơ kết, tổng kết việc thực hiện Chỉ thị vào thời gian thích hợp.
Chỉ thị này được phổ biến đến chi bộ để thực hiện./.
Một số chính sách mới có hiệu lực từ tháng 10/2021
Nhiều quy định mới về đăng kiểm ô tô
Từ 01/10/2021, các quy định về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ được thực hiện theo Thông tư số 16/2021/TT-BGTVT, ngày 12/8/2021 của Bộ Giao thông Vận tải.
Thông tư mới này có nhiều nội dung mới liên quan đến việc đăng kiểm ô tô, như:
- Đi đăng kiểm không còn phải xuất trình bảo hiểm xe như quy định cũ, mà chỉ cần xuất trình giấy tờ về đăng ký xe hoặc giấy hẹn cấp giấy đăng ký xe. Đồng thời, cần nộp bản chính Giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới đối với trường hợp xe cải tạo.
- Bốn trường hợp ô tô bị cảnh báo đăng kiểm, gồm: Xe có khiếm khuyết, hư hỏng, kiểm định không đạt; Xe thanh lý không có thông tin trong cơ sở dữ liệu sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu, kiểm định thì đơn vị đăng kiểm sẽ xác minh sự phù hợp của xe trên cơ sở dữ liệu về đăng ký xe, qua xác minh, không phù hợp với xe trên thực tế; Xe tạm nhập, tái xuất; Xe vi phạm giao thông quá hạn giải quyết.
- Tăng thời hạn đăng kiểm xe kinh doanh vận tải đến 09 chỗ từ 18 tháng lên 24 tháng đối với chu kỳ đầu và từ 06 tháng lên 12 tháng đối với chu kỳ tiếp theo.
- Quy định riêng mẫu tem kiểm định riêng cho xe kinh doanh vận tải và xe không kinh doanh vận tải, thay vì dùng chung như quy định trước đây…
Thêm trường hợp được miễn phí sử dụng đường bộ
Ngày 01/10/2021 cũng là thời điểm chính thức có hiệu lực của Thông tư số 70/2021/TT-BTC, ngày 12/8/2021 của Bộ Tài chính về mức thu, chế độ thu, nộp, miễn, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ.
So với quy định cũ tại Thông tư số 293/2016/TT-BTC, điểm e khoản 5 Điều 3 Thông tư số 70/2021 đã bổ sung thêm một loại phương tiện được miễn phí sử dụng đường bộ là xe ô tô đặc chủng gồm xe thông tin vệ tinh, xe chống đạn, xe phòng chống khủng bố, chống bạo loạn và các xe ô tô đặc chủng khác của Bộ Công an.
Ngoài ra, các trường hợp khác vẫn được miễn phí như quy định cũ là xe cứu thương, xe chữa cháy, xe ô tô cảnh sát 113 có in dòng “CảNH SáT 113” ở hai bên thân xe, xe ô tô chuyên chở phạm nhân, xe cứu hộ, cứu nạn…
Doanh nghiệp nhỏ và vừa hưởng nhiều chính sách hỗ trợ mới
Ngày 26/8/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa có hiệu lực từ 15/10/2021.
Trong đó, có thể kể đến một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đáng chú ý như sau:
- Tăng mạnh mức hỗ trợ tư vấn doanh nghiệp nhỏ và vừa: Doanh nghiệp siêu nhỏ được hỗ trợ tối đa không quá 50 triệu đồng/năm/doanh nghiệp (trước đây chỉ tối đa 03 triệu đồng); doanh nghiệp nhỏ không quá 100 triệu đồng/năm/doanh nghiệp (trước đây không quá 05 triệu đồng)…
- Thêm chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa do nữ làm chủ: Hỗ trợ 100% giá trị hợp đồng tư vấn (không quá 70 triệu đồng/năm/doanh nghiệp) với doanh nghiệp siêu nhỏ; với doanh nghiệp nhỏ, mức hỗ trợ là 50% giá trị hợp đồng tư vấn nhưng không quá 150 triệu đồng/năm/doanh nghiệp…
II. BÀI VIẾT
Phát huy truyền thống, ngành Kiểm tra Đảng
đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
Đồng chí Hoàng Văn Hùng
Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy
Ngày 16/10/1948, tại đồi Pụ Miếu, xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Quyết nghị số 29 về việc thành lập Ban Kiểm tra Trung ương. Sau đó, các Ban Kiểm tra của Khu ủy, Liên khu ủy lần lượt được thành lập. Sự ra đời của Ban Kiểm tra Trung ương - cơ quan kiểm tra chuyên trách đầu tiên của Đảng là một tất yếu khách quan, nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đối với Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, sự chỉ đạo của Liên khu ủy Việt Bắc, Tỉnh ủy Thái Nguyên đã quyết định thành lập các ban chuyên môn giúp việc; trong đó, Ban Tổ chức Kiểm tra được thành lập vào quý I năm 1948. Đến đầu năm 1949, Ban Tổ chức Kiểm tra được tách thành 2 ban là Ban Đảng vụ và Ban Kiểm tra. 73 năm qua, cùng với truyền thống vẻ vang của ngành Kiểm tra Đảng cả nước, tự hào là nơi ghi dấu sự ra đời của cơ quan kiểm tra chuyên trách đầu tiên của Đảng, ủy ban Kiểm tra (UBKT) các cấp của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên luôn bám sát nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ cách mạng, tích cực và chủ động thực hiện toàn diện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ do cấp ủy giao. Qua đó, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. Với những thành tích đáng tự hào trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành, ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý, như: Huân chương Lao động hạng Nhất (lần 2), Cờ thi đua xuất sắc của Chính phủ, UBKT Trung ương, Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh. Đó là những ghi nhận là nguồn cổ vũ động viên to lớn đối với sự phấn đấu vươn lên không ngừng của ngành Kiểm tra Đảng tỉnh Thái Nguyên.
Sau 73 năm xây dựng và trưởng thành (16/10/1948 - 16/10/2021), vượt lên khó khăn, đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp trong Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạnh của Đảng, đoàn kết thống nhất, không ngừng đổi mới nội dung và phương pháp công tác, nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. UBKT các cấp vừa làm tốt công tác tham mưu, vừa triển khai toàn diện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng.
Trong những năm qua, UBKT và đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp trong tỉnh đã nhận thức đúng đắn vi trí, vai trò công tác kiểm tra, giám sát; chủ động tham mưu, xây dựng chương trình và triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Qua công tác kiểm tra, giám sát, UBKT các cấp đã kết luận hoặc tham mưu, giúp cấp ủy kết luận, đánh giá đúng ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân; xem xét, kết luận hoặc đề nghị cấp ủy quyết định thi hành kỷ luật nghiêm minh, kịp thời đối với những trường hợp cố tình vi phạm. Nét nổi bật về công tác kiểm tra, giám sát trong thời gian qua là: UBKT các cấp đã tập trung phục vụ cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, tiến tới Đại hội XIII của Đảng; bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026; tham mưu giúp cấp ủy tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW và các quy định nêu gương của Đảng. Tập trung giải quyết những nơi có vấn đề phức tạp, nổi cộm sau đại hội đảng bộ các cấp và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp; phục vụ cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo, kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy và cán bộ của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị; bổ sung, sửa chữa hoặc ban hành mới nhiều văn bản, như: Nghị quyết, quy chế, quy định, chương trình, kế hoạch và các quy trình kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và UBKT các cấp. Triển khai nghiên cứu các đề án về công tác kiểm tra, giám sát. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng, nhiệm vụ cấp ủy giao và tham mưu, giúp cấp ủy thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, UBKT Tỉnh ủy, UBKT các cấp luôn thể hiện tư tưởng chỉ đạo: “Chủ động, chiến đấu, giáo dục và hiệu quả” với phương châm “Công minh, chính xác, kịp thời”. Kết quả công tác kiểm tra, giám sát đã có tác dụng quan trọng góp phần thúc đẩy thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội; bảo đảm quốc phòng - an ninh; giữ vững kỷ cương và tăng cường kỷ luật; từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng.
Để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, đòi hỏi phải đổi mới và nâng cao chất lượng; hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng; đoàn kết thống nhất và bảo đảm dân chủ, giữ vững kỷ cương và tăng cường kỷ luật của Đảng; đẩy mạnh và ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; bảo vệ, quan điểm, đường lối của Đảng. Tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng, nhận thức và hành động trong các cấp ủy, tổ chức đảng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, trước hết là trong các cấp ủy, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội các cấp. Kịp thời đánh giá đúng ưu điểm của tổ chức đảng và đảng viên để phát huy, phát hiện, chỉ rõ hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, khắc phục và xử lý nghiêm minh, kịp thời khi có vi phạm.
Tự hào với truyền thống của ngành Kiểm tra Đảng nói chung, thành tích 73 năm xây dựng và trưởng thành của UBKT Tỉnh ủy nói riêng, trong thời gian tới, cấp ủy, UBKT các cấp trong tỉnh tập trung thực hiện tốt những nội dung sau:
Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy về công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, các tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện; tạo được sự chuyển biến tích cực trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhận thức và hành động, trong đó tập trung tuyên truyền các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận, hướng dẫn của Trung ương, của Tỉnh về các nội dung có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng theo tinh thần Kết luận 226-KL/TW, ngày 03/3/2009 của Ban Bí thư về “Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng”.
Hai là, đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trong toàn Đảng bộ tỉnh; cấp ủy các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện toàn diện, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát theo đúng nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng và hướng dẫn của ủy ban Kiểm tra Trung ương, cơ quan UBKT các cấp tích cực tham mưu cấp ủy, chủ động thực hiện toàn diện các nhiệm vụ theo quy định; tăng cường, chú trọng nắm bắt tình hình cơ sở, địa bàn, tập trung kiểm tra, giám sát vào những lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, những vấn đề nổi cộm, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm để chủ động nhắc nhở, cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm từ sớm; chủ động phối hợp với các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị có liên quan để thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm kiểm tra đối với tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm và phấn đấu hằng năm tăng 10% trở lên so với số tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên được kiểm tra của Đảng bộ tỉnh; kịp thời xử lý nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên có khuyết điểm, vi phạm; tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Ba là, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và các quy định nêu gương đối với cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị; rà soát đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định, quy chế về công tác xây dựng Đảng; các văn bản, quy định, quy trình, hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng cho phù hợp với tình hình thực tế. Các quy định, quy chế phối hợp giữa các tổ chức đảng với các tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
Bốn là, cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp phải xác định công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng được đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, giải quyết kịp thời, đúng quy định các đơn thư tố cáo, khiếu nại của đảng viên và công dân; phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể trong việc tiếp nhận, đối thoại và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của đảng viên, công dân, không để phát sinh điểm nóng, các vụ việc phức tạp, khiếu kiện đông người, kéo dài, vượt cấp. Lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, công tác bảo vệ người tố cáo, trong đó đưa nội dung kiểm tra, giám sát công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo vào chương trình kiểm tra, giám sát của Ban Thường vụ cấp ủy. Định kỳ tổ chức họp giao ban để đánh giá tình hình, kết quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn; kịp thời chỉ đạo xử lý, giải quyết dứt điểm.
Năm là, củng cố kiện toàn tổ chức, bộ máy UBKT các cấp; xây dựng đội ngũ cán bộ UBKT các cấp có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ. Cán bộ kiểm tra các cấp phải nêu cao trách nhiệm, tính trung thực, liêm chính trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, trung thực với đồng chí, với tập thể mà trước hết là với chính bản thân mình. Xây dựng các quy định của Đảng theo thẩm quyền để nâng cao bản lĩnh, trách nhiệm của UBKT và cán bộ kiểm tra, đồng thời tạo hành lang pháp lý quan trọng để cán bộ kiểm tra thực hiện nhiệm vụ./.
Phát huy vai trò gương mẫu của đảng viên
Gương mẫu là trách nhiệm, danh dự, tiêu chí của người đảng viên. Hành động gương mẫu của đảng viên góp phần củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Công tác xây dựng Đảng phải đặc biệt chú trọng thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương; thông qua công tác tư tưởng và tổ chức làm cho “nêu gương phải thực sự trở thành một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng”(1).
Hành động gương mẫu của đảng viên là phương thức lãnh đạo của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, vậy thì, theo đó, các thành viên của Đảng, những người đảng viên phải là những người “tiên phong”, những người gương mẫu đi đầu trong các lĩnh vực, các công việc, mọi lúc, mọi nơi. Gương mẫu là “thuộc tính” của người đảng viên; đã là đảng viên phải gương mẫu; ai không gương mẫu thì không xứng đáng là đảng viên của Đảng và nếu đã là đảng viên mà không gương mẫu thì nên tự xin ra khỏi Đảng.
Năm 1951, trong bài viết “Người đảng viên Đảng Lao động Việt Nam phải như thế nào”(2), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng Lao động Việt Nam gồm những công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách mạng nhất. Nó sẽ gồm những người kiên quyết phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân, phụng sự lao động, những người chí công vô tư, làm gương mẫu trong công cuộc kháng chiến kiến quốc. Như thế là rõ. Ai mà không như thế thì không xứng đáng là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam”(3). Theo tư tưởng của Bác Hồ, đã là đảng viên phải gương mẫu, “Nói tóm lại: người đảng viên dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp - ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng”(4); đảng viên nào không làm gương mẫu trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc thì người đó không xứng đáng là đảng viên của Đảng.
Đảng ta thực hành lãnh đạo bằng xác định chủ trương, đường lối, bằng công tác tuyên truyền vận động Nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Hành động gương mẫu của đảng viên là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng và cũng là một bảo đảm trên thực tế việc giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Trong bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã viết: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ”.
Trong các lĩnh vực, các công việc, mọi lúc, mọi nơi, đảng viên gương mẫu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng thì mới lôi cuốn được Nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Đảng viên đi trước làng nước theo sau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mỗi đảng viên là người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng, Chính phủ cho quần chúng biết rõ và vui lòng thi hành. Mà muốn cho quần chúng hăng hái thi hành, thì người đảng viên ắt phải xung phong làm gương mẫu để quần chúng bắt chước, làm theo”(5). Người nhấn mạnh, hành động gương mẫu của đảng viên “… làm cho dân tin Đảng, phục Đảng, yêu Đảng và làm theo chính sách của Đảng và Chính phủ”(6). Như vậy, hành động gương mẫu là một biểu hiện khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo của đảng viên, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; đảng viên nào không gương mẫu là đã tự tước đi vai trò lãnh đạo của mình; không những thế, họ còn làm suy giảm sức mạnh lãnh đạo của Đảng. Đại hội Đảng lần thứ XIII đã chỉ rõ: “Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng”(7).
Làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, dân noi theo
Nội dung, yêu cầu gương mẫu của người đảng viên rất rộng, gương mẫu về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; gương mẫu trong lời nói và việc làm; gương mẫu mọi lúc, mọi nơi;… Nghị quyết, chỉ thị của Đảng trong các nhiệm kỳ đã xác định rất rõ nội dung gương mẫu của người đảng viên. Vấn đề đặt ra là, mỗi đảng viên phải luôn tự ý thức về vai trò tiên phong của người đảng viên để luôn có hành động gương mẫu. Người đảng viên dù ở cương vị nào cũng phải luôn “tự soi, tự sửa, tự rèn” theo nội dung tư cách đảng viên, theo tiêu chí gương mẫu để có hành động gương mẫu ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi công việc. Gương mẫu là trách nhiệm và danh dự, nghĩa vụ và quyền lợi, là chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong, là phẩm giá của người đảng viên.
Hiện nay, có thể thấy rất rõ rằng, cơ cấu xã hội của đảng viên rất đa dạng về giai tầng, nghề nghiệp, nơi cư trú, dân tộc, địa vị xã hội, lứa tuổi,… người đang công tác, người đã nghỉ hưu,… Vì thế, có lẽ cần cụ thể hóa hơn nữa, sát thực tiễn hơn nữa nội dung gương mẫu của các đảng viên trên các cương vị, ở các lĩnh vực, các đơn vị, ngành nghề,… để đảng viên dễ nhớ, dễ làm và để việc giám sát của tổ chức đảng, các thành tố của hệ thống chính trị và nhân dân với hành động gương mẫu của đảng viên thực chất hơn, hiệu quả và hiệu lực hơn. Trong bài viết “Người đảng viên Đảng Lao động Việt Nam phải như thế nào”, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nội dung gương mẫu của người đảng viên, sau đó Người chỉ ra nội dung gương mẫu của đảng viên là quân nhân, công nhân, nông dân, trí thức. Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh nên cần chú trọng cụ thể hóa hơn nữa nội dung hành động gương mẫu của đảng viên phù hợp với sự đa dạng cơ cấu xã hội của đội ngũ đảng viên hiện nay. Thời gian tới cần tập trung “nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hàng ngày”(8).
Vấn đề căn cốt để mỗi đảng viên luôn có hành động gương mẫu là, mỗi người luôn phải thấm nhuần và thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, “dĩ công vi thượng”; luôn biết đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của Nhân dân lên trước hết, trên hết; luôn tự ý thức vị thế, vai trò, danh dự người đảng viên; luôn biết đấu tranh với hành vi tiêu cực của mình và các đồng chí của mình, chủ động phòng chống và loại trừ chủ nghĩa cá nhân để không có hành vi tiêu cực, không suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. “Mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng”(9).
Đảng viên gương mẫu là những người luôn cố gắng hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “…Khi chúng ta phụ trách một công việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, chúng ta cũng phải nhớ đến việc đó có quan hệ với cách mạng, ảnh hưởng đến cách mạng. Chúng ta phải toàn tâm toàn lực làm cho thành công, làm tròn nhiệm vụ…. Tư tưởng ta thông như vậy, thì gặp việc gì chúng ta cũng cẩn thận, cố gắng, quyết tâm làm cho vượt mức. Thế là lòng trách nhiệm”(10).
Vấn đề quan trọng nhất, cái đích của hành động gương mẫu của đảng viên là phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, dân noi theo. “… người đảng viên, từ việc làm, lời nói cho đến cách ăn ở, phải làm thế nào cho dân tin, dân phục, dân yêu”; “Đảng viên nào không được dân tin, dân phục, dân yêu thì chưa xứng đáng là một người đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam”(11). Hành động gương mẫu của đảng viên củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng. Dân tin Đảng, theo Đảng sẽ tạo dựng sức mạnh to lớn bảo đảm cho thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. “Thế trận lòng dân”, “sức mạnh nội sinh”, “tinh thần dân tộc”, “đoàn kết dân tộc” được xây dựng từ nhiều nguồn, trong đó có nguồn gốc từ hành động gương mẫu của mỗi đảng viên.
Tạo dựng môi trường để phát huy hành động gương mẫu
Hành động gương mẫu là hệ quả tổng hợp của nhiều yếu tố, của quá trình tu dưỡng, rèn luyện và sự tự ý thức về tính tiên phong gương mẫu của mỗi người đảng viên; đồng thời là sự giáo dục, kiểm tra, giám sát của các tổ chức, các lực lượng và nhân dân. Như vậy, để phát huy hành động gương mẫu của người đảng viên phải khơi dựng, củng cố, phát huy sự tự tu dưỡng, rèn luyện, sự tự ý thức về tính tiên phong trong mỗi người đảng viên; đồng thời, phải phát huy vai trò của các thiết chế chính trị, văn hóa, xã hội, tạo dựng sức mạnh tổng hợp, môi trường lành mạnh để nuôi dưỡng, phát huy hành động gương mẫu của người đảng viên.
Định kỳ hằng tháng, hằng quý, hằng năm các tổ chức đảng (chi bộ, cấp ủy đảng) đều tổ chức sinh hoạt. Trong sinh hoạt, các tổ chức đảng đạt được tốt các tính chất cơ bản: lãnh đạo, chiến đấu, giáo dục, nhất là tính chiến đấu sẽ giúp tổ chức đảng, các đảng viên nhận biết hành động gương mẫu của đảng viên để phát huy, thấy được những biểu hiện tiêu cực, không gương mẫu của đảng viên để phê phán, ngăn chặn. Chất lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng tạo dựng môi trường để phát huy vai trò tiên phong gương mẫu và ngăn chặn hành vi tiêu cực, suy thoái, không gương mẫu của đảng viên. Vấn đề đặt ra là, phải đảm bảo bầu không khí dân chủ, đề cao tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt của các tổ chức đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh. Nhờ nó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, tiến bộ không ngừng”; nếu “…không thực hiện tự phê bình và phê bình, thì nhiều khuyết điểm nhỏ sẽ cộng thành khuyết điểm to, nó sẽ có hại cho công tác”(12).
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc các cấp có chức năng giám sát. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, tuyệt đại đa số cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị, nhất là cán bộ chủ chốt đều là đảng viên. Vì thế, về cơ bản, hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc các cấp là giám sát các đảng viên giữ các chức vụ trong hệ thống chính trị các cấp. Vấn đề đặt ra là phải không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc các cấp; khắc phục căn bệnh hành chính, thành tích trong hoạt động giám sát. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, cần phối kết hợp chặt chẽ việc phát huy hành động gương mẫu của đảng viên và hành động gương mẫu của cán bộ, công chức, viên chức; phát huy sức mạnh tổng hợp hoạt động kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng các cấp với hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc các cấp, tạo dựng “mạng lưới” kiểm tra, giám sát hành vi của đảng viên, qua đó mà phát huy vai trò gương mẫu và ngăn chặn hành vi tiêu cực, suy thoái, không gương mẫu của đảng viên. Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định: “Coi trọng kiểm tra, giám sát trong Đảng kết hợp với phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, báo chí và Nhân dân đối với cán bộ, đảng viên thực hiện các quy định nêu gương”(13).
Trong tâm thức của mỗi người Việt luôn tự ý thức, tự hào về cội nguồn, về gia đình, dòng họ, làng xã,.. Danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ, làng xã là một giá trị văn hóa truyền thống mà mỗi người luôn nuôi dưỡng trong suy nghĩ và hành động; họ luôn cố gắng sống tốt để góp phần vun đắp, nâng cao danh dự gia đình, dòng họ, làng xã và luôn lo sợ khi mà việc làm của mình tổn hại đến thanh danh của gia đình, dòng họ, làng xã. Trong việc phát huy hành động gương mẫu của đảng viên, có lẽ cũng nên sử dụng giá trị văn hóa truyền thống này để vừa nuôi dưỡng hành động gương mẫu và ngăn chặn hành vi tiêu cực, không gương mẫu của đảng viên. Và bằng cách nào đó, cũng nên lồng ghép hành động gương mẫu của đảng viên vào trong “quy ước”, “hương ước” của dòng họ, làng xã; để người dân căn cứ vào đó mà giám sát hành động gương mẫu của đảng viên, tạo dựng phương thức đa dạng trong giám sát của người dân với đảng viên; thông qua thiết chế văn hóa dòng họ, làng xã để phát huy vai trò giám sát của người dân đối với đội ngũ đảng viên. Tuy vậy, cũng cần ngăn ngừa việc lợi dụng tính cộng đồng dòng họ, làng xã để tạo dựng các nhóm lợi ích, gây ra các tác động tiêu cực trong hành vi của đảng viên.
Tầng sâu của hành động gương mẫu là sự đấu tranh, giằng xé về lợi ích, giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích nhóm,… Trong nền kinh tế thị trường, khi mà vấn đề lợi ích được đề cao trong xã hội thì cuộc đấu tranh về lợi ích ngày càng hiện rõ, căng thẳng và quyết liệt trong mỗi con người đảng viên. Toan tính về lợi ích trong mỗi đảng viên diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trong mọi lúc, mọi mơi, mọi công việc, không loại trừ ai. Sự toan tính đó có thể có ý thức, cũng có thể “vô thức”, mang tính “bản năng”. Bảo đảm hài hòa các lợi ích sẽ giúp đảng viên hăng hái gương mẫu đi đầu trong mọi công việc, mọi lúc, mọi nơi. Trong giải bài toán lợi ích, mỗi đảng viên luôn thấm nhuần quan điểm tư tưởng “dĩ công vi thượng”, luôn biết đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trước hết, trên hết; đồng thời, mỗi người đảng viên luôn đấu tranh có hiệu quả với chủ nghĩa cá nhân, “… thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên”(14), thực hành gương mẫu trong mọi công việc, mọi lúc, mọi nơi./.
Phạm Xuân Hảo
...................................
(1) (8) (14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.2, tr.238, 237, 237.
(2) (3) (4) (5) (6) (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.6, tr.188-190, 188, 189, 189, 189, 189-190.
(7) (9) (13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2021, tập 1, tr. 184, 184, 184,.
(10) (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2000, t.7, tr. 257, 576.